Indonesia với tên gọi chính thức là Cộng hòa Indonesia là một đảo quốc nằm ở giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương.
Indonesia được mệnh danh là “xứ Sở vạn đảo” vì lãnh thổ nước này bao gồm 12.487 hòn đảo lớn nhỏ.
Indonesia là nhà sản xuất cà phê lớn thứ tư trên thế giới từ năm 2014. Để có được vị thế này, Cà phê Indonesia đã trải qua một kỷ nguyên đen tối của lịch sử, để trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người Indonesia.
Theo dòng lịch sử cây cà phê. Cây cà phê đầu tiên bắt đầu từ Ethiopia sau đó sang Yemen và rồi theo đường biển đến Indonesia.
Có thể coi Indonesia là một trong những nước canh tác cà phê rất sớm.
Từ thế kỷ 16, lúc bấy giờ Hà Lan là một đế quốc thống trị thương mại toàn cầu với rất nhiều thuộc địa từ đông sang tây. Nhờ sức mạnh hải quân tăng lên nhanh chóng từ cuối thế kỷ 16, Hà Lan đã làm chủ các con đường hàng hải trong nửa sau thế kỷ 17. Họ là bá chủ của biển khơi suốt thời gian này.
Và Indonesia là một thuộc địa lớn tại châu Á, thuộc bộ phận Đông Ấn.
Chính vì vậy, thông qua các chuyến hải trình cây cà phê đã có mặt tại Indonesia khá sớm trước các quốc gia khác.
Thống đốc Hà Lan ở Malabar (Ấn Độ) đã gửi một cây cà phê từ Yemen (Giống Arabica) cho Thống đốc Hà Lan Batavia (nay là Jakarta – Indonesia) vào năm 1696.
Các cây cà phê đầu tiên này bị chết do ngập lụt ở Batavia.
Lô cây giống thứ hai đã được gửi vào năm 1699 được trồng thành công và là dấu mốc cho sự phát triển của cây cà phê ở Indonesia
Khi Indonesia vẫn còn bị Hà Lan chiếm đóng, cây cà phê Arabica đến Indonesia. Họ quan tâm đến việc trồng cây và tìm cách phá vỡ thế độc quyền của người Ả Rập trên toàn thế giới về buôn bán cà phê.
Ban đầu, Chính phủ Thuộc địa Hà Lan đã trồng cà phê xung quanh Batavia (Jakarta), và xa về phía nam như Sukabumi và Bogor.
Các đồn điền cà phê sau đó được thành lập ở Đông Java, Trung Java, Tây Java, và ở một số vùng của Sumatra và Sulawesi. Nhiều diện tích đất có rừng đã được khai phá và canh tác đặc biệt để phát triển các đồn điền này.
Sự phát triển của các đồn điền cà phê là nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của nhiều cơ sở hạ tầng ở Trung Java trong thời gian chuyển giao thế kỷ 19.
Cần có đường bộ và đường sắt để vận chuyển hạt cà phê từ nội địa đảo đến các cảng nơi cà phê được chất lên tàu và xuất khẩu.
Đặc biệt, trước thế chiến thứ hai miền Trung Java có hệ thống giao thông đường sắt rất mạnh đưa cà phê, đường, hạt tiêu, chè và thuốc lá ra khỏi tỉnh đến thành phố cảng Semarang. Đông Indonesia, Đông Timor và Flores cũng sản xuất cà phê trong thời kỳ này.
Tuy nhiên, những hòn đảo này vẫn thuộc quyền cai trị của người Bồ Đào Nha.
Người Bồ Đào Nha cũng đã nhập khẩu cây cà phê Arabica, nhưng chúng từ nguồn gốc khác với giống mà người Hà Lan đã nhập khẩu.
Vào gần cuối thế kỷ 19, một phần lớn các cây cà phê ở Indonesia, cũng như Sri Lanka và Malaysia, đã mắc bệnh gỉ sắt ở cà phê.
Bệnh gỉ sắt cà phê là một loại nấm tạo ra sự phát triển của chất bột mịn màu vàng cam bắt đầu ở mặt dưới của lá cây. Loại nấm này lây lan rất nhanh và xóa sổ toàn bộ đồn điền, tàn phá ngành cà phê Indonesia thuộc địa.
Phía đông của các hòn đảo cũng bị ảnh hưởng, nhưng không đến mức Java bị ảnh hưởng vì nguồn gốc khác nhau mà họ đã trồng.
Một số chủ đồn điền đã không tái canh cây cà phê mà chuyển sang trồng chè hoặc cây cao su để thay thế mà họ cảm thấy ít bị bệnh hơn.
Nhiều đồn điền trong số này vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay. Người Hà Lan đối phó với bệnh gỉ sắt ở cà phê bằng cách nhập khẩu và trồng cà phê Liberica.
Giống này phổ biến trong thời gian ngắn và cũng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Giống Liberica vẫn có thể được tìm thấy trên khắp Java, nhưng hiếm khi được sử dụng làm cây thương mại ở Indonesia.
Chính quyền thuộc địa Hà Lan sau đó đã chọn giống Robusta kháng bệnh hơn để trồng lại các đồn điền bị ảnh hưởng. Robusta vẫn chiếm khoảng 90% sản lượng cà phê ở Indonesia hiện nay.
Chiến tranh thế giới thứ hai và cuộc đấu tranh giành độc lập đóng một vai trò quan trọng trong những thay đổi sau đó trên thị trường cà phê Indonesia. hôm nay.
Các đồn điền đã được tiếp quản trong một thời gian ngắn bởi những người Nhật chiếm đóng.
Sau khi độc lập, các đồn điền trên khắp Indonesia hoặc thuộc quyền kiểm soát của chính phủ mới hoặc bị bỏ hoang.
Nhiều chủ đồn điền thuộc địa đã bỏ trốn khỏi đất nước để tránh bị bắt.
Ngày nay, gần 92% sản lượng cà phê nằm trong tay các nông hộ nhỏ hoặc hợp tác xã.