“Cup of Excellence” và niềm tự hào của tất cả nông dân…
Cà phê tại Bolivia gần như 100% là giống arabica, chủ yếu là hai giống Typica và Criolla. 90% cà phê tập trung tại khu vực Yungas, khu vực có khí hậu nhiệt đới ở La Paz với độ cao từ 500 tới 1600 mét. Một số vùng trồng quan trọng khác như Cochabamba, Santa Cruz, và Tarija.
Trước năm 1991, hầu hết nông trại được sở hữu bởi những địa chủ giàu có, sử dụng lao động là người bản địa. Vào năm 1991, chính phủ bắt đầu ban hành chính sách cơ cấu lại đất đai, bắt buộc các chủ đồn điền phải chia lại đất đai cho những người sở hữu đất trước kia. Những nông hộ nhỏ với diện tích từ 3 tới 20 mẫu anh sản xuất ra phần lớn lượng cà phê tại Bolivia, chiếm từ 85 tới 90%, cho dù những nông hộ này không chỉ trồng riêng cà phê.
“Ngành cà phê Bolivia đã tái cấu trúc lại theo định hướng chất lượng, tập trung vào công nghệ sau thu hoạch, chủ yếu là tại các xưởng chế biến ướt và khô”. Ông Marcos Moreno, chuyên gia tư vấn kinh tế nông nghiệp cho dự án Market Access và Paverty Alleviation (MAPA), dự án này được tài trợ bởi USAID nhằm mục đích hỗ trợ nông hộ về mặt kỹ thuật. “ Đây là một ngành cà phê còn mới mẻ với chỉ có hơn 23 000 nông hộ, bắt đầu học hỏi để sản xuất ra cà phê tốt hơn và tạo ra thu nhập ổn định”.
“Đây không phải là một điều kì diệu chỉ mới xảy ra ở Bolivia, mà nó là kết quả của những nỗ lực làm việc chăm chỉ của các nông hộ để chứng minh khả năng của họ và thay đổi một nhận thức không đúng về chất lượng của cà phê Bolivia”.
Các nông hộ nhỏ sử dụng rất ít hoặc không sử dụng phân bón và thuốc nông dược. Cà phê thường được hái bằng tay, rửa và sau đó được phơi dưới nắng hoặc sấy bằng máy móc. Những dự án khác, ví dụ như những dự án được tài trợ bởi Mỹ nhằm xoá bỏ các vùng trồng thuốc phiện, giúp xây dựng các nhà máy sơ chế cà phê để cà phê không phải vận chuyển xa từ vùng trồng đến vùng sơ chế nữa.
Cùng với dự án ACEB, Mỹ cũng đã tài trợ 150 000 đô la để tổ chức các chương trình Cup of Excellence vào tháng 10 và tháng 12 năm 2004. Trong năm đầu tiên, 13 nông hộ trồng cà phê tại Bolivia nhận được danh hiệu Cup of Excellence, giải nhất thuộc về hạt cà phê được chấm 90.44, sản xuất bởi hợp tác xã CENAPROC, và đã được bán với giá $11 trên một pound. Ngoài việc tạo thêm sự hứng khởi cho các nông hộ khác tham gia vào chương trình năm sau, dự án cũng hy vọng việc nhận được giá thành cao cho sản phẩm chất lượng sẽ giúp nông hộ từ bỏ việc trồng coca sang trồng cà phê. Tuy nhiên, với giá $2 trên một pound thì giá coca vẫn cao gần gấp đôi giá hiện tại của cà phê.
“ Hiện nay, hơn 45 con cái của các nông hộ đã được huấn luyện thử nếm cà phê”, ông Moreno phát biểu. “ Đây là một thay đổi lớn của ngành khi mà chỉ cách đây 4 năm chúng tôi chỉ có 1 chuyên gia thử nếm, mà chính xác là việc thử nếm xoay quanh việc xác định lỗi hơn là tìm ra các hương vị tích cực. Sự thay đổi trong thái độ của người trồng xuất phát từ việc họ biết thử nếm hương vị tuyệt vời của cà phê đã trở thành nền tảng để thay đổi ngành. Bây giờ họ đã hiểu được tại sao chỉ có những trái cà phê chín, không bị lẫn trái xanh hay trái mốc, mới có thể tạo ra một ly cà phê chất lượng”.
Tổng kết cà phê Bolivia
- Giống: chỉ có Arabica, chủ yếu là Typica và Criolla.
- Hương vị: Ngọt, trái cây và cân bằng.
- Các vùng trồng chính: Yungas, Cochabamba, Santa Cruz và Tarija.
- Độ cao: từ 500 tới 1600 mét
- Mùa nở hoa: Tháng 8, 9.
- Mùa thu hoạch: tháng 2 tới tháng 4.
- Sơ chế: Hái tay, chủ yếu sơ chế ướt, được phơi dưới nắng hoặc sấy bằng máy.
- Giao hàng: tháng 6 tới tháng 12
- Thị trường chính: Đức, Hà Lan, Tây Ba Nha, Chi lê, Nhật và Mỹ.
Tài liệu được dịch sang Tiếng Việt bởi Công ty TNHH BLAGU Việt Nam
Trích dẫn bài viết “Navigating Origins” được viết bởi Mark Mckee